Bộ Khoa học và Công nghệ đang tích cực triển khai các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của khu công nghiệp công nghệ số và khu công nghiệp công nghệ thông tin tập trung tại các địa phương. Đến tháng 5/2025, Việt Nam đã có 8 khu công nghệ thông tin tập trung được thành lập, mở rộng và công nhận theo quy định của pháp luật. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 890/QĐ-TTg về việc thành lập Khu công nghệ thông tin tập trung Bình Dương, với diện tích 15,47 ha, nằm trong Khu liên hợp Công nghiệp – Dịch vụ – Đô thị Bình Dương. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin khi đầu tư vào khu công nghệ thông tin tập trung này sẽ được hưởng các ưu đãi theo quy định tại Nghị định số 154/2013/NĐ-CP và các chính sách ưu đãi khác áp dụng cho khu công nghệ thông tin tập trung.
Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang tích cực hướng dẫn và phối hợp với các địa phương để thúc đẩy sự phát triển của các khu công nghệ số tập trung. Một số địa phương được hướng dẫn và hỗ trợ bao gồm Yên Bình – Thái Nguyên, Hậu Giang, Bình Định, Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Long Thành tỉnh Đồng Nai và Bắc Ninh. Việc phát triển các khu công nghệ số tập trung này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ số, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam.
Tuy nhiên, đánh giá về Hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số Việt Nam hiện vẫn còn một số hạn chế. Hệ sinh thái này vẫn còn thiếu tính đa dạng, bền vững và năng lực công nghệ. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tập trung vào ứng dụng và phát triển công nghệ, trong khi khả năng làm chủ công nghệ còn hạn chế, đặc biệt là các công nghệ mới như Trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, chuỗi khối, internet vạn vật, bán dẫn, 5G, 6G, thông tin vệ tinh. Điều này cho thấy Việt Nam cần có những giải pháp để nâng cao năng lực công nghệ và phát triển hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số một cách toàn diện.
Một thách thức khác mà ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam đang phải đối mặt là tổng doanh thu ngành cao nhưng chủ yếu đến từ các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn chưa thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp FDI do chưa đáp ứng được các tiêu chí hoặc chưa đủ năng lực để nhận chuyển giao công nghệ mà các tập đoàn công nghệ quốc tế đặt ra. Điều này cho thấy Việt Nam cần có những giải pháp để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế trên là Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, các tổng công trình sư. Mặc dù có nguồn nhân lực dồi dào, Việt Nam vẫn đang đối mặt với thách thức thiếu hụt các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số. Để giải quyết vấn đề này, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng cần hoàn thiện khung khổ pháp lý, đặc biệt là văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Công nghiệp công nghệ số. Đồng thời, cần xây dựng và tổ chức triển khai các chiến lược, chương trình, đề án phát triển công nghiệp công nghệ số như Chiến lược quốc gia về phát triển công nghiệp bán dẫn.
Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đề xuất phát triển hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số Việt Nam một cách toàn diện, bao trùm đầy đủ từ công nghiệp phụ trợ, sản xuất sản phẩm công nghệ số, nghiên cứu phát triển các nền tảng số, các giải pháp số tổng thể phục vụ chuyển đối số quốc gia và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc phát triển hệ sinh thái công nghiệp công nghệ số toàn diện sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.