Nguồn nhân lực – Nhandanvietnam.com https://nhandanvietnam.com Cập nhật tin tức toàn diện và chính xác về Việt Nam và thế giới. Mon, 04 Aug 2025 08:20:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/ngoisaodoanhnhan.svg Nguồn nhân lực – Nhandanvietnam.com https://nhandanvietnam.com 32 32 Intech Group muốn làm chip bán dẫn, sản xuất linh kiện từ vài trăm nghìn đến vài triệu đô https://nhandanvietnam.com/intech-group-muon-lam-chip-ban-dan-san-xuat-linh-kien-tu-vai-tram-nghin-den-vai-trieu-do/ Mon, 04 Aug 2025 08:20:28 +0000 https://nhandanvietnam.com/intech-group-muon-lam-chip-ban-dan-san-xuat-linh-kien-tu-vai-tram-nghin-den-vai-trieu-do/

Các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu, nhưng cần có những bước đi cụ thể và phù hợp với năng lực của mình. Ông Cao Đại Thắng, Tổng giám đốc Intech Group, cho rằng việc bắt đầu từ những bước nhỏ, tập trung vào từng công đoạn cụ thể hoặc các mô hình công nghệ phù hợp là chìa khóa để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu.

Xây dựng những mô hình công nghệ đơn giản, hiệu quả giúp doanh nghiệp giải bài toán thực tế (ảnh minh hoạ)
Xây dựng những mô hình công nghệ đơn giản, hiệu quả giúp doanh nghiệp giải bài toán thực tế (ảnh minh hoạ)

Qua quá trình làm việc với các doanh nghiệp lớn và tìm hiểu nhiều mô hình, ông Cao Đại Thắng nhận ra rằng điểm khởi đầu phù hợp với năng lực của doanh nghiệp Việt Nam và điều kiện tại Việt Nam là bắt đầu từ những bước nhỏ. Ông cho biết rằng nhiều dự án thất bại không phải vì ý tưởng không thuyết phục mà vì chi phí đầu tư ban đầu quá lớn, vượt quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp startup.

Nếu biết bắt đầu đúng cách, từng phần, ở từng phân xưởng, bài toán chi phí có thể được giải quyết, mở ra các cơ hội hợp tác. Intech Group đã có những đối tác quốc tế trong ngành và các doanh nghiệp này bày tỏ thiện chí sẵn sàng hợp tác với các đối tác Việt Nam nếu có được mô hình khởi động phù hợp. Điều kiện tiên quyết là hạ tầng có thật, con người sẵn sàng, mô hình đầu tư thông minh cho phép tận dụng được lợi thế chi phí, lao động và ý chí học hỏi của người Việt.

Từ thực tế đó, Intech Group đã có kế hoạch triển khai xây dựng trung tâm hạ tầng công nghệ quy mô nhỏ để hỗ trợ sản xuất linh kiện, vi mạch. Ông Cao Đại Thắng cho rằng cách tạo đà này không phải là thứ gì xa vời, bắt đầu từ hệ thống hàn dây, đóng gói, đo kiểm… chính là những bước rất thiết thực để xây dựng năng lực sản xuất dần dần.

Ông Nguyễn Đức Minh, Phó hiệu trưởng trường Điện – điện tử (Đại học Bách khoa Hà Nội), đồng quan điểm rằng điểm nghẽn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp SME, là nguồn vốn đầu tư. Tuy nhiên, cơ hội vẫn sẽ đến nếu doanh nghiệp lựa chọn hướng đi phù hợp với điều kiện nhằm phát huy lợi thế nhất định của mình là khả năng thích ứng nhanh, linh hoạt.

Bước đi phù hợp được ông Nguyễn Đức Minh gọi là “du kích công nghệ”. Thay vì loay hoa căng sức phục vụ thị trường lớn, việc chọn phân khúc phù hợp – thị trường ngách để khởi đầu đã và đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Các chuyên gia đánh giá rằng việc tập trung vào một phân khúc thị trường nhỏ, chuyên biệt nhưng vừa sức là cách làm phù hợp với doanh nghiệp SME, chưa có tiềm lực lớn.

Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt đầu tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu thông qua những bước đi nhỏ, tập trung vào từng công đoạn cụ thể hoặc các mô hình công nghệ phù hợp với năng lực của mình. Việc lựa chọn hướng đi phù hợp và bắt đầu từ những bước nhỏ sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi công nghệ toàn cầu một cách hiệu quả.

https://infonet.vietnamnet.vn/goc-nhin/nhung-buoc-di-nho-giup-doanh-nghiep-viet-tham-gia-chuoi-cong-nghe-toan-cau-2315164.html

]]>
Chuyển đổi số khu vực công – tiền đề cho phát triển kinh tế – xã hội https://nhandanvietnam.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/ Mon, 21 Jul 2025 10:20:16 +0000 https://nhandanvietnam.com/chuyen-doi-so-khu-vuc-cong-tien-de-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi/

Chuyển đổi số trong khu vực công đang trở thành một phần quan trọng trong quá trình cải cách thể chế quốc gia. Việc ứng dụng công nghệ số vào khu vực công mang lại nhiều lợi ích, giúp tối ưu hóa hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận dịch vụ công một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Theo các chuyên gia, chuyển đổi số trong khu vực công hiện nay không chỉ là một yêu cầu mà còn là một điều kiện thiết yếu để nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hóa nền hành chính và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Nghị quyết số 57-NQ/TW đã đề ra định hướng đột phá về thể chế để phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mục tiêu dài hạn của nghị quyết là định vị lại vai trò của khu vực công trong hệ sinh thái số quốc gia.

Tuy nhiên, quá trình triển khai chuyển đổi số trong khu vực công vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Một trong những khó khăn được chỉ ra là sự lạc hậu của cơ sở hạ tầng công nghệ tại nhiều cơ quan Nhà Nước. Hiện có nhiều nơi vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ và không đồng bộ, gây ra khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới. Bên cạnh đó, ngân sách hạn chế cho chuyển đổi số, đặc biệt ở các địa phương hoặc cơ quan cấp cơ sở, cũng là một trở ngại lớn.

Ngành Ngân hàng là một trong số những bộ ngành đi đầu trong chuyển đổi số và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng. Tính đến nay, đã có 63 tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chip tại quầy và 57 tổ chức tín dụng triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chip qua mobile app. Ngành Ngân hàng cũng tích cực kết nối với Cổng Dịch vụ công Quốc gia và triển khai nhiều giải pháp thanh toán trực tuyến, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch một cách thuận tiện.

Apesar những kết quả tích cực, việc triển khai chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Sự phát triển nhanh của công nghệ và gia tăng rủi ro an ninh mạng là một trong những khó khăn. Ngoài ra, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực nguồn nhân lực và thay đổi văn hóa tổ chức cũng là những thách thức cần được giải quyết.

Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm trong chuyển đổi số. Điều này sẽ giúp cùng với các bộ, ngành khác xây dựng một nền hành chính công hiện đại và thuận tiện, tạo tiền đề mới cho sự phát triển kinh tế, xã hội.

]]>
Nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong 5 năm tới https://nhandanvietnam.com/nang-cao-doi-song-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-trong-5-nam-toi/ Mon, 21 Jul 2025 09:25:48 +0000 https://nhandanvietnam.com/nang-cao-doi-song-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-trong-5-nam-toi/

Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021–2030 là một trong ba chương trình trọng điểm quốc gia, thể hiện sự quan tâm đặc biệt, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước đối với khu vực còn nhiều khó khăn, thách thức nhất cả nước. Không chỉ nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển, nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS, Chương trình còn đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng, phát huy nội lực vùng DTTS&MN – một mắt xích không thể thiếu trong chiến lược tăng trưởng nhanh, bền vững, hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số của nền kinh tế trong thời gian tới.

1 trong 5 trụ cột chiến lược trong giai đoạn II (2026-2030) là phát triển sinh kế bền vững, nâng cao năng suất, đa dạng mô hình, thúc đẩy sản phẩm OCOP và chuỗi giá trị.
1 trong 5 trụ cột chiến lược trong giai đoạn II (2026-2030) là phát triển sinh kế bền vững, nâng cao năng suất, đa dạng mô hình, thúc đẩy sản phẩm OCOP và chuỗi giá trị.

Sau gần 5 năm triển khai giai đoạn I (2021–2025), Chương trình đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực, tạo tiền đề quan trọng để bứt phá trong giai đoạn II (2026–2030). Theo báo cáo tổng kết của Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, trong 9 nhóm mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2021–2025, có 6 nhóm hoàn thành và vượt kế hoạch. Nổi bật nhất là mục tiêu giảm nghèo – cốt lõi của Chương trình. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào DTTS giảm bình quân 3,4%/năm, vượt chỉ tiêu đề ra (3%). Thu nhập bình quân của người DTTS đến cuối năm 2025 dự kiến đạt 45,9 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2020.

Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện rõ rệt: 57,8% lao động DTTS trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp (vượt mục tiêu 50%). Đồng thời, nhiều giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn; dịch bệnh từng bước được kiểm soát tại các vùng sâu, vùng xa. Chương trình cũng ghi dấu bằng những con số ấn tượng với hơn 42.500 hộ được hỗ trợ nhà ở, trên 10.500 hộ có đất ở, 13.387 hộ được cấp đất sản xuất. Có 18.145 lượt hộ vay vốn chuyển đổi nghề. Khoán bảo vệ 1,47 triệu ha rừng, tạo sinh kế cho 323.000 hộ. Gần 2.500 mô hình sản xuất cộng đồng và 403 dự án liên kết chuỗi giá trị được triển khai. Có hơn 6.000 công trình giao thông nông thôn, hàng trăm công trình điện và gần 1.800 nhà sinh hoạt cộng đồng được đầu tư xây mới, nâng cấp.

Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, hơn 1.000 cơ sở giáo dục được hỗ trợ thiết bị, 4.700 lớp xóa mù chữ mở ra, 115.000 người học nghề, gần 38.000 lao động được tư vấn, đưa đi làm việc ở nước ngoài. Về văn hóa – y tế, nhiều giá trị truyền thống được bảo tồn; 52 trung tâm y tế huyện và 471 trạm y tế xã được nâng cấp, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật hiện đại.

Tuy nhiên, vẫn còn 3 nhóm mục tiêu chưa đạt như kỳ vọng, gồm: hoàn thiện hạ tầng thiết yếu; tỷ lệ xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn còn thấp; tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất và bất cập trong công tác định canh, định cư vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Để đạt được mục tiêu trong giai đoạn II (2026–2030), Chương trình sẽ triển khai đồng bộ theo 5 trụ cột chiến lược: Phát triển hạ tầng đồng bộ, ưu tiên giao thông, điện, nước sạch, y tế, giáo dục, hạ tầng du lịch, gắn với quốc phòng – an ninh. Phát triển sinh kế bền vững, nâng cao năng suất, đa dạng mô hình, thúc đẩy sản phẩm OCOP và chuỗi giá trị. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo nghề; chú trọng cán bộ người DTTS, nhất là phụ nữ và thanh niên. Hỗ trợ DTTS rất ít người; thực hiện chính sách đặc thù để thu hẹp khoảng cách phát triển. Truyền thông, giám sát và chuyển đổi số, tăng minh bạch, hiệu quả quản lý, ứng dụng công nghệ trong triển khai.

Thứ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Y Vinh Tơr cho biết, trong thời gian tới, Bộ sẽ tập trung hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình MTQG DTTS&MN theo tinh thần chỉ đạo tại Quyết định số 920/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Cùng với việc tổ chức tổng kết toàn diện giai đoạn I (2021–2025), Bộ sẽ nghiêm túc tiếp thu các ý kiến giám sát của Quốc hội, cử tri và các cơ quan liên quan, từ đó xây dựng, đề xuất các nội dung và cơ chế thực hiện Chương trình giai đoạn II.

]]>